
1. Sửng sốt, bởi trước “Bữa tiệc
ly” của Leonardo da Vinci, chưa hề có một tác phẩm hội họa tả thực nào có được
phong thái hiện thực tinh tường và sống động đến thế. Nó vượt qua cung cách
“kiểu thức hóa” của các tác phẩm cùng chủ đề có trước đó, đã đành. Nó còn vượt
qua cái nhìn nghệ thuật “hướng đến cái đẹp lý tưởng” với các tiêu chuẩn toán
học về sự hài hòa tiếp thu từ nghệ thuật Hy Lạp-La Mã cổ đại chi phối cảm quan
nghệ thuật của các nghệ sĩ đương thời. Những gì hiện diện ở tác phẩm đều là
“khách quan tuyệt đối”. Thêm nữa, do kích thước lớn (450 x 870cm), và do cách
phối cảnh, bức tranh đã nhập hẳn vào “thế giới khách quan” như một sự kiện độc
đáo! Có lẽ, E.H. Gombrich, trong “Câu chuyện nghệ thuật” (“The story of
art”-xuất bản lần đầu năm 1950) đã có lý khi mô tả:
“… Bức họa bao phủ một mặt tường của gian sảnh hình
chữ nhật dùng làm phòng ăn cho các tu sĩ thuộc tu viện Đức Bà Đầy Ơn Phúc ở Milan . Người ta phải hình
dung cái sự thể đã xảy ra khi bức họa được trưng bày lần đầu, và khi sát kề
những dãy bàn ăn dài của các thầy dòng là bàn tiệc của Đức Kitô và các tông đồ.
Trước nay chưa khi nào câu chuyện thánh này có vẻ gần gũi và giống thật đến
thế. Như thể một gian sảnh khác được nối thêm vào với gian phòng của các thầy
dòng, tại đó “Bữa tiệc ly” mặc lấy một dáng vẻ hiện thực. Cái luồng sáng đổ xuống
trên bàn tiệc mới trong trẻo làm sao, và nhờ nó các nhân vật thêm đầy đặn và
thuần khiết biết nhường nào. Có lẽ các thầy dòng là những người đầu tiên bị
choáng váng vì lối diễn đạt vô cùng chính xác đã lột tả mọi chi tiết, từ các
chén đĩa trên bàn và những đường lõm của y phục xếp nếp…”
Và dĩ nhiên
không chỉ có vậy.
2. Mức độ trung thực của hình ảnh
chỉ là một khía cạnh. Nếu chỉ nhìn ở khía cạnh này, nhiều tác phẩm cùng chủ đề
sau đó, đã luôn vượt trội hơn, bởi sự ra đời của sơn dầu (oil painting) vốn rất
thuận lợi cho việc mô tả. Điều quan trọng hơn, làm nên giá trị “không thể vượt
qua” của tác phẩm, là ở cái cách trình bày câu chuyện Kinh Thánh của Leonardo
da Vinci. Hình ảnh các nhân vật và bối cảnh được thể hiện trong tranh hết sức
tự nhiên, tuy nhiên, đó không phải là kết quả của một sự nắm bắt ngẫu nhiên của
trí tưởng tượng, mà là sản phẩm được sáng tạo với sự nghiền ngẫm, quan sát và
diễn tả tuyệt vời của một bậc thiên tài. Ngoài những vấn đề kỹ thuật như bố cục
và phác họa, ta phải ngưỡng mộ sự hiểu biết sâu sắc của Leonardo da Vinci về
thái độ và hành vi con người, và cái khả năng tưởng tượng nhờ nó ông có thể đặt
cảnh tượng ấy trước mắt ta. Người ta đã có thể gọi tên từng nhân vật được thể
hiện và, có thể cảm giác về một sự vận động mạnh mẽ của tinh thần trong tác
phẩm.
“Nơi tác phẩm này không có gì giống với những minh
họa cùng chủ đề trước đó.
Trong những họa phẩm truyền thống ấy, các tông đồ
ngồi yên lặng thành một dãy ở bàn tiệc - chỉ mình Giuđa bị cách ly khỏi cộng
thể - trong khi Đức Kitô đang trầm lặng ban phát Bí tích Mình Thánh.
Bức tranh mới rất khác với bất kỳ bức họa nào trong
số này. Nó hàm chứa một bi kịch và một nỗi kích động. Leonardo, giống như
Giotto trước ông, cũng đã quay về với các bản văn Thánh Kinh, và đã cố hình
dung cái sự thể hẳn đã xảy ra khi Đức Kitô nói: “Thầy bảo thật cho anh em biết,
một người trong anh em sẽ phản bội Thầy”. Các môn đệ hết sức buồn bã và từng
người bắt đầu hỏi Ngài: “Thưa Thầy, chẳng lẽ con sao?” (Mt 26, 21-22). Trong Phúc
âm, Thánh Gioan thêm rằng: “Trong số các môn đệ, có một người được Đức Giêsu thương
mến. Ông đang dùng bữa, đầu tựa vào lòng Đức Giêsu. Simon Phêrô làm hiệu cho
ông ấy và bảo: “Hỏi xem Thầy muốn nói về ai?” (Ga 13, 23-24). Chính việc hỏi
han và ra dấu này đã đưa chuyển động vào trong khung ảnh. Đức Kitô vừa nói ra
những lời sầu thảm thì những kẻ bên cạnh Ngài lùi lại vì kinh khiếp khi nghe
điều ấy. Vài môn đệ như khẳng định tình yêu và sự vô tội của mình. Một hai môn
đệ khác hết sức nghiêm túc bàn luận xem ai có thể là kẻ Thầy muốn ám chỉ. Một
số khác lại như nhìn vào Thầy để chờ giải thích. Thánh Phêrô, nóng nảy nhất
trong cả nhóm, chúi vào Thánh Gioan. Ông ngẫu nhiên đẩy Giuđa về phía trước.
Giuđa không bị tách khỏi nhóm, thế nhưng dường như ông ta rất trơ trọi. Chỉ
mình ông ta ngồi yên và không thắc mắc. Ông ngã người về phía trước và nhìn lên
trong ngờ vực hoặc giận dữ, một tương phản đầy ấn tượng so với hình ảnh Đức
Kitô ngồi trầm lặng và chịu đựng giữa cảnh náo động đang trào dâng.
Người ta tự hỏi phải mất bao lâu những khán giả đầu
tiên mới nhận ra cái nghệ thuật hoàn hảo đã chi phối tất cả những động tác đầy
kịch tính này. Bất kể sự khích động gây ra do lời nói của Đức Kitô, không hề có
rối loạn trong bức tranh. Mười hai tông đồ như rất tự nhiên phân thành bốn nhóm
ba người, được liên kết với nhau bằng cử chỉ và chuyển động. Có biết bao trật
tự trong sự đa dạng này, và quá nhiều kiểu mẫu khác nhau trong trật tự ấy, đến
độ người ta chẳng khi nào có thể nghiên cứu tường tận cái tác dụng hỗ tương hài
hòa giữa chuyển động và chuyển động hồi đáp…”
(E.H.Gombrich - sách đã dẫn)
3. Ở một khía cạnh khác nữa, cách
trình bày câu chuyện Kinh Thánh của Leonardo da Vinci là sự dung hòa tuyệt vời
giữa tính chất “thần thiêng” với tính chất “thế tục”. Một mặt, tính cách hiện
thực của tác phẩm, đã khiến cho câu chuyện Kinh Thánh trở thành một mảnh của
thực tại, rất gần với mọi người, biến câu chuyện Kinh Thánh trở thành một kinh
nghiệm đời thường… Nhưng mặt khác, ngay trong cách bố cục tranh, với sự nổi bật
trong tư thế vững chãi ở vị trí trung tâm của hình ảnh Chúa Giêsu, cùng sự cân
xứng, hài hòa tự nhiên đã khiến cho tác phẩm toát lên vẻ nghiêm trang “thần
thánh” và gợi mở vô số những liên tưởng sâu xa vượt ra ngoài các trải nghiệm
thường tục. Cái cấu trúc tam giác cân trong cách thể hiện hình ảnh Chúa Giêsu
được xem là một ẩn ngôn biểu hiện sự hợp nhất Ba Ngôi - nền tảng của Bí tích
Thánh Thể và Bí tích Truyền Chức Thánh. Toàn bộ phối cảnh trong tranh đã hướng
sự chú ý của người xem vào vị trí trung tâm này của hình ảnh Chúa Giêsu. Và cả
cái khung cửa sổ ở ngay sau lưng Chúa Giêsu cũng đã gợi cho mọi người cảm tưởng
không đơn thuần là một yếu tố không gian. Cái ánh sáng mà nó mang lại dường như
có ý nghĩa thay thế cho vòng hào quang tượng trưng phổ biến trong các tranh
thánh. Nó nhấn mạnh, hay khẳng định, cho ý nghĩa linh thiêng của sự hợp nhất của
Ba Ngôi Thiên Chúa…
V.v… và v.v…
Chính khả năng
gợi mở vô số những liên tưởng, những trừu xuất siêu hình vừa nói, đã khiến cho
“Bữa tiệc ly” của Leonardo da Vinci có một sức hấp dẫn kỳ lạ và tác phẩm đã
không ngừng được tái sinh cho đến ngày nay…
Còn nhiều điều
có thể nói. Nhưng tôi sẽ quay lại vào một dịp khác. “Bữa tiệc ly” của Leonardo
da Vinci, ngay cả trong tình trạng bị hư hại, vẫn là “một phép lạ vĩ đại” do
tài năng con người tạo nên.
Nguyên Hưng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét