Thứ Tư, 17 tháng 7, 2013

Về tác phẩm "Bắt Chúa Giêsu"(1) của Caravaggio

Đối với người Công giáo, trong Mùa Chay, nhất là trong Tuần Thánh, tên Giuđa với câu chuyện “bán Chúa” vẫn luôn được nhắc lại. Đây là chủ đề vĩnh cửu cho sự xét mình!

Trong nghệ thuật, chuyện Giuđa bán Chúa, cũng đã trở thành một chủ đề lớn, mà sự thể hiện luôn bao hàm  những ý nghĩa suy nghiệm.

Có rất nhiều tác phẩm nghệ thuật về chủ đề này, nhưng nổi tiếng nhất, phải kể đến Cái hôn của Giuđa của Giotto di Bondone (Giotto:1267-1337) và Bắt Chúa Giêsu của Michelangelo Merisi  da Caravaggio (Caravaggio: 1571-1610)- hai bậc thầy hội họa - một người được xem là “vĩ nhân” mở đầu thời đại Phục hưng trong nghệ thuật, và người kia là “thiên tài” tiên phong của nghệ thuật Baroque.


Cái hôn của Giuđa là một trong những tác phẩm tiêu biểu của Giotto, mà giá trị, cơ bản, là đóng góp một cách thể hiện mới, gần với kinh nghiệm hằng ngày hơn của mọi người, trước các chủ đề tôn giáo. Ngày nay, cách thể hiện này của Giotto đã trở thành quá đơn giản, chỉ có ý nghĩa minh họa (Kinh Thánh), nhưng đương thời, trong bối cảnh chịu sự chi phối rộng khắp của nghệ thuật Byzantium và Gothic, đã là cả một cuộc “cách mạng”. Nó không còn là những hình ảnh tượng trưng khô khan để “gợi nhớ”, “gợi tưởng” nữa. Đó đã là cả một câu chuyện: Giuđa đã hôn Chúa Giêsu như thế nào trước những kẻ đang vây bắt Người, và Thánh Phêrô đã cắt tai gã đầy tớ của thầy thượng tế ra làm sao… Xin xem ảnh tranh:

“Cái hôn của Giuđa”-1305-Giotto



Bức tranh của Caravaggio có một tinh thần và giá trị khác. Khác, bởi nó được vẽ sau bức tranh của Giotto đến gần tròn 300 năm, khi mà nghệ thuật đã đi qua trọn vẹn giai đoạn phát triển rực rỡ với khả năng tả thực ngày càng tinh tế hơn của thời đại Phục hưng. Tranh của Caravaggio không còn thuần túy là kể câu chuyện Kinh Thánh bằng hình ảnh nữa. Sắc thái biểu hiện với sự nhìn nhận và đánh giá chủ quan đã tràn ngập vào từng chi tiết trong tranh. Trong tranh, đã có thể ẩn giấu bao nhiêu suy tưởng siêu hình

"Bắt Chúa Giêsu"-1602-Caravaggio



Bức tranh, thoạt trông, cũng như chỉ mô tả “cái hôn của kẻ phản bội Giuđa”. Khác, so với bức tranh của Giotto, cũng có vẻ như, chỉ ở hình thức tả thực chi li và sống động hơn mà thôi!

Không đơn giản như vậy! Hãy nhìn kỹ ảnh tranh. Nổi bật trong không gian đêm tối là gương mặt im lặng chịu đựng trước cái hôn của kẻ phản bội và đôi bàn tay đan vào nhau của Chúa Giêsu.

Caravaggio thể hiện chủ đề cách khác. Ông thể hiện sự đón nhận của Chúa Gsu trước sự phản bội này. Khi vẽ, cũng như Giotto và Leonardo da Vinci trước đây, Caravaggio, đã nghiền ngẫm kỹ càng câu chuyện trong Kinh Thánh. Trong tranh, ông hầu như không tập trung đánh giá hành động “bán Chúa” của Giuđa, ngoài việc mô tả dáng vẻ thô bạo thể hiện qua cánh tay ôm chặt lấy Chúa Giêsu và gương mặt biểu lộ sự xác tín. Ông tập trung vào Chúa Giêsu. Đặc biệt như muốn nhấn mạnh vào đôi bàn tay đan vào nhau của Chúa Giêsu. Ánh sáng trong tranh cho phép nói như vậy về sự nhấn mạnh này. Ông muốn diễn tả phản ứng của Chúa Giêsu: chấp nhận, chịu đựng. Chính gương mặt hớt hải trong tư thế quay lưng bỏ chạy của một vị tông đồ nào đó (được cho là Thánh Gioan) ngay sau lưng Chúa Giêsu, càng làm rõ nét sự điềm tĩnh chấp nhận của Người…

Chúng ta đã biết, trong Kinh Thánh, hành động bán Chúa  Giêsu của Giuđa là có thật. Và, cũng trong Kinh Thánh, chúng ta đã biết, Chúa Giêsu đã biết trước hành động của Giuđa và không hề kết tội ông ta. Ngài chấp nhận điều đó như một sự thật hiển nhiên. Vấn đề này, đã và vẫn đang gây nhiều tranh luận trong các nỗ lực diễn giải Kinh Thánh khác nhau.

Trong cách nhìn của Caravaggio, khi thể hiện đề tài này, ông cho rằng, sự chấp nhận trong Đức Vâng Lời của Chúa Giêsu mới là điều đáng chú ý, và đáng suy nghiệm nhất. Phần Nhận lại từ Chúa Giêsu, chính là thông điệp về sự chấp nhận trong Đức Vâng Lời này! Chúa Giêsu đến thế gian không phải để giành phần thắng theo cái nhìn thế tục. Chúa Giêsu đến thế gian và chịu khổ nạn, để chứng minh sự tất thắng của cái thiện. Đôi bàn tay đan vào nhau của Chúa Giêsu biểu thị cho sự kiềm chế các phản ứng trần thế mà Người đang mang vác trong hình hài con người. Chúa Giêsu trước đó đã làm vô số phép lạ của một sức mạnh siêu nhiên, và không ai có thể bắt được Người. Nhưng Người đã không dùng cái sức mạnh siêu nhiên đó để đối kháng với bạo lực của con người. Người đã chấp nhận để bị bắt, chịu cực hình rồi chịu đóng đinh trên Thập Tự Giá trong dáng vẻ yếu đuối của con người. Chỉ trong dáng vẻ này, Người mới làm thức tỉnh lương tri con người. Bởi, chính sự thức tỉnh lương tri mới là nền tảng của đạo đức. Và đó là Thánh Ý Chúa

Với Caravaggio, hình ảnh Giuđa với bàn tay thô bạo và vẻ mặt xác tín, chỉ là biểu tượng cho sự u mê, tham lam bán mình cho các loại quyền lực trần thế của con người mà thôi. Có lẽ, ý tưởng của ông là quá mới lạ, quá táo bạo so với cách nghĩ đương thời, nên tác phẩm này của ông, suốt gần 4 thế kỷ sau đó, đã bị chìm khuất trong bóng tối. Cả thời gian dài, người ta không biết về sự tồn tại của nó, ngoài một số giai thoại đủ loại về nó-từ chuyện các phát biểu của ông vừa nêu cho đến chuyện ông lấy mình làm nguyên mẫu cho hình tượng Giuđa…

Mãi đến năm 1990, tác phẩm Bắt Chúa Giêsu này của Caravaggio mới được tìm thấy một cách tình cờ trong phòng ăn của các Linh mục dòng Tên ở Dublin (Ireland). Những khảo sát sau đó đã xác nhận đây là một bức tranh thật của Caravaggio, và từ 1993, nó đã được chuyển về treo tại Thư viện Quốc gia Ireland




Nguyên Hưng



(1)                 Nguyên tác tiếng Ý là "La cattura di Cristo", dịch thẳng ra tiếng Anh là "The capture of Christ". Khi dịch một cách văn vẻ hơn, thay vì dùng chữ "Capture", thì người ta dùng chữ "Taking"

Thứ Ba, 16 tháng 7, 2013

Trở lại với “Bữa tiệc ly” của Leonardo da Vinci (II)

Ngày nay, do đã quá quen với các hình thức nghệ thuật tả thực, ít ai còn ngạc nhiên khi đứng trước hình ảnh “Bữa tiệc ly” của Leonardo da Vinci nữa. Nhưng, hãy thử đặt mình vào vị trí người thưởng lãm ở cuối thế kỷ XV, lúc ấy, chắc hẳn chúng ta cũng sẽ vô cùng sửng sốt.

1. Sửng sốt, bởi trước “Bữa tiệc ly” của Leonardo da Vinci, chưa hề có một tác phẩm hội họa tả thực nào có được phong thái hiện thực tinh tường và sống động đến thế. Nó vượt qua cung cách “kiểu thức hóa” của các tác phẩm cùng chủ đề có trước đó, đã đành. Nó còn vượt qua cái nhìn nghệ thuật “hướng đến cái đẹp lý tưởng” với các tiêu chuẩn toán học về sự hài hòa tiếp thu từ nghệ thuật Hy Lạp-La Mã cổ đại chi phối cảm quan nghệ thuật của các nghệ sĩ đương thời. Những gì hiện diện ở tác phẩm đều là “khách quan tuyệt đối”. Thêm nữa, do kích thước lớn (450 x 870cm), và do cách phối cảnh, bức tranh đã nhập hẳn vào “thế giới khách quan” như một sự kiện độc đáo! Có lẽ, E.H. Gombrich, trong “Câu chuyện nghệ thuật” (“The story of art”-xuất bản lần đầu năm 1950) đã có lý khi mô tả:

“… Bức họa bao phủ một mặt tường của gian sảnh hình chữ nhật dùng làm phòng ăn cho các tu sĩ thuộc tu viện Đức Bà Đầy Ơn Phúc ở Milan. Người ta phải hình dung cái sự thể đã xảy ra khi bức họa được trưng bày lần đầu, và khi sát kề những dãy bàn ăn dài của các thầy dòng là bàn tiệc của Đức Kitô và các tông đồ. Trước nay chưa khi nào câu chuyện thánh này có vẻ gần gũi và giống thật đến thế. Như thể một gian sảnh khác được nối thêm vào với gian phòng của các thầy dòng, tại đó “Bữa tiệc ly” mặc lấy một dáng vẻ hiện thực. Cái luồng sáng đổ xuống trên bàn tiệc mới trong trẻo làm sao, và nhờ nó các nhân vật thêm đầy đặn và thuần khiết biết nhường nào. Có lẽ các thầy dòng là những người đầu tiên bị choáng váng vì lối diễn đạt vô cùng chính xác đã lột tả mọi chi tiết, từ các chén đĩa trên bàn và những đường lõm của y phục xếp nếp…”






Và dĩ nhiên không chỉ có vậy.


2. Mức độ trung thực của hình ảnh chỉ là một khía cạnh. Nếu chỉ nhìn ở khía cạnh này, nhiều tác phẩm cùng chủ đề sau đó, đã luôn vượt trội hơn, bởi sự ra đời của sơn dầu (oil painting) vốn rất thuận lợi cho việc mô tả. Điều quan trọng hơn, làm nên giá trị “không thể vượt qua” của tác phẩm, là ở cái cách trình bày câu chuyện Kinh Thánh của Leonardo da Vinci. Hình ảnh các nhân vật và bối cảnh được thể hiện trong tranh hết sức tự nhiên, tuy nhiên, đó không phải là kết quả của một sự nắm bắt ngẫu nhiên của trí tưởng tượng, mà là sản phẩm được sáng tạo với sự nghiền ngẫm, quan sát và diễn tả tuyệt vời của một bậc thiên tài. Ngoài những vấn đề kỹ thuật như bố cục và phác họa, ta phải ngưỡng mộ sự hiểu biết sâu sắc của Leonardo da Vinci về thái độ và hành vi con người, và cái khả năng tưởng tượng nhờ nó ông có thể đặt cảnh tượng ấy trước mắt ta. Người ta đã có thể gọi tên từng nhân vật được thể hiện và, có thể cảm giác về một sự vận động mạnh mẽ của tinh thần trong tác phẩm.





“Nơi tác phẩm này không có gì giống với những minh họa cùng chủ đề trước đó.

Trong những họa phẩm truyền thống ấy, các tông đồ ngồi yên lặng thành một dãy ở bàn tiệc - chỉ mình Giuđa bị cách ly khỏi cộng thể - trong khi Đức Kitô đang trầm lặng ban phát Bí tích Mình Thánh.

Bức tranh mới rất khác với bất kỳ bức họa nào trong số này. Nó hàm chứa một bi kịch và một nỗi kích động. Leonardo, giống như Giotto trước ông, cũng đã quay về với các bản văn Thánh Kinh, và đã cố hình dung cái sự thể hẳn đã xảy ra khi Đức Kitô nói: “Thầy bảo thật cho anh em biết, một người trong anh em sẽ phản bội Thầy”. Các môn đệ hết sức buồn bã và từng người bắt đầu hỏi Ngài: “Thưa Thầy, chẳng lẽ con sao?” (Mt 26, 21-22). Trong Phúc âm, Thánh Gioan thêm rằng: “Trong số các môn đệ, có một người được Đức Giêsu thương mến. Ông đang dùng bữa, đầu tựa vào lòng Đức Giêsu. Simon Phêrô làm hiệu cho ông ấy và bảo: “Hỏi xem Thầy muốn nói về ai?” (Ga 13, 23-24). Chính việc hỏi han và ra dấu này đã đưa chuyển động vào trong khung ảnh. Đức Kitô vừa nói ra những lời sầu thảm thì những kẻ bên cạnh Ngài lùi lại vì kinh khiếp khi nghe điều ấy. Vài môn đệ như khẳng định tình yêu và sự vô tội của mình. Một hai môn đệ khác hết sức nghiêm túc bàn luận xem ai có thể là kẻ Thầy muốn ám chỉ. Một số khác lại như nhìn vào Thầy để chờ giải thích. Thánh Phêrô, nóng nảy nhất trong cả nhóm, chúi vào Thánh Gioan. Ông ngẫu nhiên đẩy Giuđa về phía trước. Giuđa không bị tách khỏi nhóm, thế nhưng dường như ông ta rất trơ trọi. Chỉ mình ông ta ngồi yên và không thắc mắc. Ông ngã người về phía trước và nhìn lên trong ngờ vực hoặc giận dữ, một tương phản đầy ấn tượng so với hình ảnh Đức Kitô ngồi trầm lặng và chịu đựng giữa cảnh náo động đang trào dâng.

Người ta tự hỏi phải mất bao lâu những khán giả đầu tiên mới nhận ra cái nghệ thuật hoàn hảo đã chi phối tất cả những động tác đầy kịch tính này. Bất kể sự khích động gây ra do lời nói của Đức Kitô, không hề có rối loạn trong bức tranh. Mười hai tông đồ như rất tự nhiên phân thành bốn nhóm ba người, được liên kết với nhau bằng cử chỉ và chuyển động. Có biết bao trật tự trong sự đa dạng này, và quá nhiều kiểu mẫu khác nhau trong trật tự ấy, đến độ người ta chẳng khi nào có thể nghiên cứu tường tận cái tác dụng hỗ tương hài hòa giữa chuyển động và chuyển động hồi đáp…”  (E.H.Gombrich - sách đã dẫn)

3. Ở một khía cạnh khác nữa, cách trình bày câu chuyện Kinh Thánh của Leonardo da Vinci là sự dung hòa tuyệt vời giữa tính chất “thần thiêng” với tính chất “thế tục”. Một mặt, tính cách hiện thực của tác phẩm, đã khiến cho câu chuyện Kinh Thánh trở thành một mảnh của thực tại, rất gần với mọi người, biến câu chuyện Kinh Thánh trở thành một kinh nghiệm đời thường… Nhưng mặt khác, ngay trong cách bố cục tranh, với sự nổi bật trong tư thế vững chãi ở vị trí trung tâm của hình ảnh Chúa Giêsu, cùng sự cân xứng, hài hòa tự nhiên đã khiến cho tác phẩm toát lên vẻ nghiêm trang “thần thánh” và gợi mở vô số những liên tưởng sâu xa vượt ra ngoài các trải nghiệm thường tục. Cái cấu trúc tam giác cân trong cách thể hiện hình ảnh Chúa Giêsu được xem là một ẩn ngôn biểu hiện sự hợp nhất Ba Ngôi - nền tảng của Bí tích Thánh Thể và Bí tích Truyền Chức Thánh. Toàn bộ phối cảnh trong tranh đã hướng sự chú ý của người xem vào vị trí trung tâm này của hình ảnh Chúa Giêsu. Và cả cái khung cửa sổ ở ngay sau lưng Chúa Giêsu cũng đã gợi cho mọi người cảm tưởng không đơn thuần là một yếu tố không gian. Cái ánh sáng mà nó mang lại dường như có ý nghĩa thay thế cho vòng hào quang tượng trưng phổ biến trong các tranh thánh. Nó nhấn mạnh, hay khẳng định, cho ý nghĩa linh thiêng của sự hợp nhất của Ba Ngôi Thiên Chúa…

V.v… và v.v…

Chính khả năng gợi mở vô số những liên tưởng, những trừu xuất siêu hình vừa nói, đã khiến cho “Bữa tiệc ly” của Leonardo da Vinci có một sức hấp dẫn kỳ lạ và tác phẩm đã không ngừng được tái sinh cho đến ngày nay…

Còn nhiều điều có thể nói. Nhưng tôi sẽ quay lại vào một dịp khác. “Bữa tiệc ly” của Leonardo da Vinci, ngay cả trong tình trạng bị hư hại, vẫn là “một phép lạ vĩ đại” do tài năng con người tạo nên.





Nguyên Hưng






Trở lại với “Bữa tiệc ly” của Leonardo da Vinci (I)

“Bữa tiệc ly” (The Last Supper1495-1498) của Leonardo da Vinci (1452-1519) - thể hiện bữa ăn tối cuối cùng của chúa Giêsu với các tông đồ trước giờ Người chịu khổ nạn - là một tác phẩm nghệ thuật vô cùng nổi tiếng.

Hầu như “ai cũng biết” đó là một kiệt tác hội họa, đánh dấu một bước phát triển hoàn mỹ của nghệ thuật nhân loại thời đại Phục hưng, là tác phẩm đỉnh cao có nhiều ảnh hưởng nhất trong lịch sử nghệ thuật Thiên Chúa giáo, và là tác phẩm được thực hiện bởi một “thiên tài nghệ thuật”…

Những cái “biết” trên chẳng có gì sai.

Nhưng, sẽ rất vô ích - thậm chí có hại - cho nhận thức, nếu không gắn liền với các diễn giải xác thực, có tính hệ thống…, và nếu không tiếp cận được với tác phẩm gốc, hoặc ít nhất là với phiên bản “đúng”.

Ở Việt Nam, cả hai vấn đề sau chữ “nhưng” vừa nêu, đều có vô số điều bất cập. Và chính vì những bất cập đó, mà tôi viết bài “trở lại” này.

Thứ nhất, về vấn đề diễn giải:

Gần như hầu hết các bài viết tiếng Việt về “Bữa tiệc ly” của Leonardo da Vinci đều chỉ xoay quanh việc mô tả sự kiện mang tính thời sự, đại khái:

Tác phẩm là một bức tranh tường, được vẽ trực tiếp lên tường phòng ăn ở tu viện Santa Maria delle Grazie ở Milan, Italy, có kích thước khá lớn (450x870cm) và, được Leonardo da Vinci sáng tác trong khoảng thời gian từ 1495 đến 1498 theo yêu cầu của Công tước Ludovico Sforza.

Để thực hiện tác phẩm này, Leonardo da Vinci phải đi quan sát thực tế rất nhiều để nắm bắt các sắc thái điển hình (về dung mạo, hành vi, trang phục) cho từng nhân vật, và đã thực hiện rất nhiều khảo họa.

Tác phẩm ngay sau khi hoàn thành, đã gây choáng váng cho người mộ điệu đương thời vì dáng vẻ hiện thực sống động, vô cùng tinh tế trong cách thức thể hiện các nhân vật, vì sự thông minh bác học trong cách phối cảnh, và, vì sự hài họa tự nhiên trong cách bố cục, điều phối màu sắc…

Điều đáng tiếc, là tác phẩm nhanh chóng bị hư hại, một phần là do Leonardo da Vinci đã sai lầm khi dùng kỹ thuật vẽ trực tiếp trên nền thạch cao khô (chứ không phải trên nền thạch cao ướt được dùng phổ biến đương thời), và phần khác, nghiêm trọng hơn, là do sự phá hoại của con người trong các thời kỳ biến động của lịch sử sau đó. Tác phẩm cũng đã được phục chế nhiều lần, nhưng chính sự phục chế này, đã gây nên các tranh luận gay gắt về diện mạo chân thực của tác phẩm hiện tại!...

Cho đến ngày nay, “Bữa tiệc ly” của Leonardo da Vinci đã được xem là một kỳ quan thế giới do con người tạo nên…

Nhiều bài viết khác, chỉ xoay quanh các giai thoại, các câu chuyện đơm đặt chung quanh tác phẩm. Từ các “thông điệp bí mật” được tác giả giấu kín trong tác phẩm đến các câu chuyện về các nguyên mẫu cho từng nhân vật trong tranh. Trong đó, được nhắc đến nhiều nhất, được nhiều người tin (là thật) nhất, là giai thoại về nguyên mẫu hình tượng Chúa Giêsu và hình tượng Giuđa (1).

Chỉ một số rất ít tập trung mô tả tác phẩm như một sự kiện nghệ thuật. Tuy nhiên, sự mô tả này, cũng chỉ dừng lại ở sự mô tả chủ đề tác phẩm, chưa đủ cho một nhận thức thực sự về nghệ thuật. Ngay sau đây là đoạn văn tiêu biểu nhất:

“Đề tài tổng quát bức hoạ là bữa tiệc ly, bữa ăn cuối cùng Chúa dùng với các môn đệ trước khi lên đường khổ nạn. Leonardo đã thu gọn đề tài vào một thời điểm nhất định trong bữa tiệc, lúc Chúa vừa nói với 12 môn đồ: “Quả thật, Thầy bảo cho các con biết, một người trong các con sẽ phản Thầy”. Nét mặt Chúa buồn rầu, đôi mắt nhìn xuống như muốn tránh cái nhìn của kẻ Người vừa tố giác. Hai tay buông xuôi tựa xuống mặt bàn, cử chỉ của Người vừa tiết lộ một điều quan trọng và bây giờ lặng thinh không nói nữa: một giây phút thinh lặng bi tráng!

Bỗng chốc, như một dòng điện, lời tố giác của Chúa truyền đi mau chóng, gây phản ứng đột ngột trên nét mặt và cử chỉ dáng điệu của 12 môn đồ. Mỗi ông phản ứng một cách tùy theo tính tình, tâm lý từng người.

Sát bên tay phải Chúa là Gioan, người môn đệ yêu quý có tâm hồn dễ cảm, biểu lộ sự đau đớn trầm lặng sâu xa. Tiếp đến Phêrô tính bộc trực nóng nảy, ghé sát đầu Gioan hỏi nhỏ xem ai là thủ phạm. Con dao sắc nhọn chìa ra phía sau lưng chứng tỏ ông sẵn sàng nghiêm trị tức khắc đứa phản Thầy như lát nữa ông sẽ chém đứt tai tên đầy tớ của thầy thượng tế trong vườn Cây Dầu. Giuđa ngồi ngay trước Phêrô, có thái độ hốt hoảng như tên ăn trộm vừa bị lộ tẩy, tay phải ôm chặt túi bạc, tay trái giơ ra phía trước như muốn phân bua chối cãi. Kế đó là Anrê, xoè hai bàn tay ra, bỡ ngỡ kinh hoàng trước cái tin gở lạ không thể tưởng tượng được. Giacôbê hậu, tinh anh hơn, vươn cánh tay gọi Phêrô như để bảo ông: “Tôi đã đoán ra được ai rồi!” Cuối hàng là Bartôlômêô sửng sốt đứng dậy nghiêng mình về phía trước đểm xem và nghe cho rõ đầu đuôi câu chuyện.

Phía tay trái Chúa: Giacôbê tiền, nét mặt bỡ ngỡ kinh ngạc, hay tay giang rộng, lùi về phía sau như bị áp lực của lời Chúa vừa tung ra. Tôma, con người linh hoạt nhất trong nhóm, đã rời chỗ lại gần Chúa giơ ngón tay băn khoăn hỏi: “Thầy có nghi ngờ gì tôi không?”

Kế đến Philipphê, dáng điệu ôn hoà, chỉ tay vào ngực thề nguyện một niềm trung tín trọn vẹn. Mátthêu đang chuyển lại tin buồn cho hai ông bạn ngồi cuối bàn là Tađêô và Simôn. Hai ông có phần lớn tuổi, cử chỉ điềm tĩnh chậm chạp hơn, nhưng nét mặt không giấu được nỗi lo âu, phiền muộn.

Giữa bầu khí xúc động náo nhiệt ấy, một mình Chúa ngồi rất điềm tĩnh, nét mặt hiền dịu in trên nền trời xanh êm ả, coi như Ngài không lưu ý gì tới sự xôn xao náo động chung quanh. Tuy nhiên người ta đọc được nét thoáng buồn trên khuôn mặt và hai bàn tay của Chúa.

Cách bố cục rất tài tình. Tác giả dàn xếp các nhận vật thành từng nhóm 3 người, mỗi bên hai nhóm. Chúa ngự giữa trung tâm bức tranh. Tất cả các đường nét, các điệu bộ, cử chỉ đều hướng về trung tâm. Từ nhóm nọ sang nhóm kia, tác giả cũng hữu ý nối kết lại với nhau bằng những đường nét rất tự nhiên, tỉ dụ bàn tay Giacôbê vắt qua lưng Phê-rô để nối liền hai nhóm bên phải Chúa, và cánh tay Mátthêu giang ra làm gạch nối giữa 2 nhóm bên trái Chúa.” (2)

Các cách diễn giải trên, có thể có ý nghĩa, trong một chừng mực nhất định, về mặt xã hội và luân lý, nhưng thực tế, chẳng giúp ích được gì cho sự tăng tiến nhận thức về nghệ thuật nói chung, về “Nghệ thuật Thánh Công giáo” nói riêng, và về bản thân tác phẩm. Cách diễn giải thứ nhất, chỉ mới là sự “làm quen”; cách thứ hai, đơn giản chỉ là “mượn cớ” cho những câu chuyện khác; còn cách diễn giải chủ đề vừa dẫn dài dòng ở trên, tuy giúp hiểu nội dung tác phẩm, nhưng rất dễ dẫn người xem vào một ngộ nhận hết sức tai hại: không phân biệt được sự khác biệt của một tác phẩm nghệ thuật với một bức tranh minh họa đơn thuần!

Những bất cập, ít nhất, cần phải làm rõ và bổ khuyết ở đây là:
Một, cần phải nhìn tác phẩm trong các tương quan lịch sử của nó. Mà, cụ thể, là trong xu hướng “canh tân” mọi mặt trong đời sống văn hóa và tôn giáo thời đại Phục hưng.

Hai, cần phải nhìn tác phẩm trong tương quan so sánh với các tác phẩm khác cùng chủ đề “Bữa tiệc ly” được sáng tác trước đó và sau đó.

Chỉ khi làm rõ hai vấn đề này, thì mới có được cái nền cơ bản, để thấy rõ hơn các đóng góp “thiên tài” của Leonardo da Vinci về ngôn ngữ nghệ thuật và về tư tưởng-hai yếu tố căn bản để có nhận thức đúng về nghệ thuật.

Dĩ nhiên, bổ khuyết cho những bất cập này là chuyện dài dòng, cần đến một chương trình phổ cập được thiết kế hệ thống. Ở đây, đặt tác phẩm giới hạn trong tương quan “Nghệ thuật Thánh Công giáo” và hướng đến đối tượng là cộng đồng giáo dân, tôi chỉ muốn lưu ý:

“Bữa tiệc ly” là một trong những chủ đề quan trọng của “Nghệ thuật Thánh Công giáo”.

Các tác phẩm “Bữa tiệc ly” trước thời Leonard da Vinci, đặc biệt trong thời Trung cổ (hoặc ở những nơi vẫn còn có tính chất trung cổ) chủ yếu, chỉ hướng đến mục tiêu phụng vụ, và với mục tiêu phụng vụ, chủ yếu chỉ nhắm đến ý nghĩa: qua đó Chúa Giêsu đã thiết lập hai bí tích quan trọng là Bí tích Thánh Thể và Bí Tích Truyền Chức Thánh. Hầu hết các tác phẩm này, với mục tiêu như vậy, xem “Bữa tiệc ly” là một sự kiện “thần thiêng” và do đó, chỉ được thể hiện một cách tượng trưng với sự uy nghiêm thuần khiết - một bảo đảm chắc chắn cho lòng tôn kính và thờ phượng. (Xem tranh)

Icon Nga, TK XIV


Icon Nga, TK XIV


Các tác phẩm “Bữa tiệc ly” sau thời Leonard da Vinci, gần như hầu hết, được thể hiện chủ yếu trong tầm nhìn “thế tục”. “Bữa tiệc ly” chỉ còn là một sự kiện lịch sử, hay thuần tuý chỉ là một ẩn dụ. Tính chất “thần thiêng” của chủ đề đã được thay thế hoàn toàn bởi tính chất “hiện thực”. Các tác phẩm, bởi vậy, mà có tính cách phóng túng và “đời thường” hơn. Dưới dây là một tác phẩm tiêu biểu:

Bữa tiệc ly, 1630, Peter Paul Rubens.



“Bữa tiệc ly” của Leonardo da Vinci là tác phẩm đầu tiên và duy nhất dung hòa tính chất “thần thiêng” và tính chất “thế tục” một cách hoàn hảo với sự hoà trộn một cách tuyệt diệu ngôn ngữ tả thực và ngôn ngữ ẩn dụ vừa thể hiện được tính cách uy nghiêm của chủ đề vừa hết sức sinh động. Chẳng phải ngẫu nhiên tác phẩm này đã có một vị thế vô cùng vững chãi không chỉ trong lịch sử “Nghệ thuật Thánh Công giáo” mà còn trong lịch sử nghệ thuật nhân loại nói chung… Xin xem lại tác phẩm: 




Thứ hai, về vấn đề tiếp cận tác phẩm:

Điều cần nói ngay, quanh “Bữa tiệc ly” của Leonardo da Vinci, có rất nhiều dị bản được thực hiện bởi nhiều họa sĩ hữu danh và vô danh ở khắp mọi nơi sau này. Và, gần như hầu hết các phiên bản “Bữa tiệc ly” mà chúng ta nhìn thấy hiện nay, ở khắp mọi nơi, đều được nhân ra từ các dị bản này. Dưới đây là vài dị bản tiêu biểu:





Từ đây, rất cần một sự khẳng định, hầu hết các phiên bản mà chúng ta đang nhìn thấy, thực sự, không thể đại diện cho “Bữa tiệc ly” của Leonardo da Vinci.

Sự khẳng định này là hết sức cần thiết. Không chỉ nhằm tránh cách đánh giá sai về tầm vóc “thiên tài” của tác phẩm gốc, mà quan trọng hơn, còn tránh dẫn đến cách hiểu sai về nghệ thuật nói chung.

Để có một chút hình dung về sự tuyệt vời của tác phẩm gốc (đã bị biến đổi nhiều do bị hư hại và qua các lần phục chế) có lẽ, chúng ta nên xem qua một số khảo họa mà Leonardo da Vinci đã thực hiện mà hiện nay còn lưu giữ được:













 Nguyên Hưng



(1) “Chuyện lạ từ bích họa “Bữa tiệc ly” và Danh họa Leonardo Da Vinci”-http://tgpsaigon.net/baiviet-tintuc/20101216/8050. 
(2) Bức họa “Tiệc ly”: 
http://www.dktnt.conggiaovn.net/ktdm/showthread.php?t=463















"Compassion" của William Bouguereau (1825-1905).

"Compassion", tranh sơn dầu (280 x 130 cm), vẽ năm 1897, của họa sĩ người Pháp William Bouguereau (1825-1905). Hiện được lưu giữ tại Bảo tàng Orsay (Paris).

Theo nhiều nhà bình luận, tác phẩm này, được William Bouguereau sáng tác, không theo một sự đặt hàng nào, và cũng không nhằm minh họa một chi tiết nào trong Kinh Thánh. Nó được ông sáng tác như một sự tuyên xưng đức tin (sẵn sàng vác thập tự giá của mình và sẵn sàng chia phần khổ nạn của Chúa), và như để gởi gắm nổi đau trước sự mất mát những người thân trong gia đình (cả 3 người con của ông đều chết trẻ). Đây dường như là bức tranh duy nhất mà lúc nào ông cũng để bên cạnh mình...




Thứ Bảy, 13 tháng 7, 2013

“Đức Mẹ” của Raphael

Trong kho tàng nghệ thuật Công giáo, tranh về Đức Mẹ Maria chiếm một tỉ lệ lớn. Hầu như nghệ sĩ Công giáo nào, từ xưa đến nay, cũng đều có vẽ tranh về Đức Mẹ. Rất dễ hiểu vì sao có sự say mê này. Ngoài các ý nghĩa "Thánh thiêng" gắn liền với những câu chuyện trong Kinh Thánh, với cuộc sống trần thế của Chúa Giêsu, hình ảnh Đức Mẹ Maria còn đi vào tâm thức mọi người, kể cả người ngoài Công giáo, như một biểu tượng thẩm mỹ về người mẹ, về người phụ nữ nói chung với các phẩm chất: thánh thiện, hy sinh, khiêm nhường v.v...

Có rất nhiều nghệ sĩ thành công trong nghệ thuật với những bức tranh về Đức Mẹ. Nhưng, dẫn đầu, vượt ra ngoài các không gian văn hóa dị biệt và khoảng cách thời đại, có lẽ, chỉ có Raphael (Tên đầy đủ: Raffaello Sanzio da Urbino, 1483 – 1520).

Ai biết chút ít về nghệ thuật, có lẽ, đều biết đến cái tên Raphael. Ông được xem là một trong ba người "khổng lồ", là họa sĩ quan trọng nhất của thời Phục hưng, và là họa sĩ "số một" của nghệ thuật Công giáo mọi thời đại. Tuy cuộc đời ngắn ngủi, mất khi mới 37 tuổi, nhưng Raphael đã để lại hơn 250 tác phẩm, mà hầu hết, đều được xếp vào hàng tuyệt tác.

Những bức tranh vẽ Đức Mẹ Maria của ông, còn lại khoảng 20 bức, đều được xem là những thành tựu tiêu biểu của nghệ thuật Phục hưng, và là những "khuôn vàng, thước ngọc" về nghệ thuật thể hiện hình tượng Đức Mẹ, cho đến ngày nay.

Đã có vô số công trình nghiên cứu và bài viết giới thiệu, phân tích về các tác phẩm này. Ở đây, trong khuôn khổ một bài viết mang tính phổ cập và nhắm đến đối tượng là người Công giáo, tôi chỉ giới thiệu hai tác phẩm vẽ về Đức Mẹ nổi tiếng nhất và có tầm ảnh hưởng lớn nhất của Raphael.

Trước hết, phải kể đến "Đức Mẹ Granduca" Raphael sáng tác năm 1504.

Khi vẽ hình ảnh Đức Mẹ trong bức tranh này, Raphael đã không dựa vào một nguyên mẫu nào. Tất cả, đều chỉ từ trí tưởng tượng. Ông phải "vật lộn" với vô số phác thảo để tìm kiếm cái đẹp lý tưởng của mình, và cuối cùng, công lao khổ nhọc của ông đã được đền đáp. Bức tranh đạt đến sự hài hoà bình dị một cách tự nhiên và ẩn chứa một trữ lượng cảm xúc vô biên, khó tả-vượt xa tất cả những tác phẩm vẽ Đức Mẹ đã có trước đó. Nhiều nhà phê bình mỹ thuật sau này cho rằng, kể từ khi "Đức Mẹ Granduca" của Raphael ra đời, hình ảnh Đức mẹ Maria trong hội họa phương Tây và cả trong tâm thức người phương Tây nói chung, mới có được một mẫu mực. Sự ảnh hưởng này dường như vẫn còn "mới nguyên" cho đến tận ngày nay. 


"Đức Mẹ Granduca"-1504-sơn dầu trên gỗ- 84 x 55 cm
Galleria Palatina (Palazzo Pitti), Florence.



Về bức tranh này, trong The story of Art”, E.H. Gombrich đã viết: "Bức “Madonna del Granduca” của Raphael đúng là kinh điển theo cái nghĩa nó đã trở thành mẫu mực cho sự hoàn hảo cho bao thế hệ... Nó không cần được giải thích. Nơi đây sức sống tràn đầy. Cái cách Raphael tạo hình khuôn mặt Đức Trinh Nữ và cho nó lui dần vào bóng tối, cái cách chàng làm cho ta cảm thấy khối lượng cơ thể dưới lớp áo choàng lỏng lẻo, sự vững chãi và dịu dàng trong cách ngài bồng ẵm Chúa Giêsu lúc còn bé-tất cả tạo nên thế cân bằng hoàn hảo. Ta cảm thấy chỉ cần thay đổi bố cục chút xíu cũng đủ làm xáo trộn toàn bộ sự hài hòa. Thế nhưng không hề có gì gò bó hay giả tạo trong cách sắp xếp. Trông nó như không thể khác hơn, và dường như nó đã hiện hữu như thế từ khi bắt đầu có thời gian”



Tác phẩm thứ hai, đáng kể hơn, chính là "Đức Mẹ Sistine”  Raphael vẽ cho nhà thờ Thánh Sixto năm 1514. 

Đây là tác phẩm cuối cùng Raphael vẽ về đề tài Đức Mẹ Maria, khi mà nhân cách và tài năng nghệ thuật của ông đang ở giai đoạn phát triển chín muồi. Hầu hết các nhà nghiên cứu lịch sử và phê bình mỹ thuật (phương Tây) đều đồng ý, "Đức Mẹ Sistine" của Raphael là đỉnh cao nhất của nghệ thuật Công giáo về đề tài Đức Mẹ Maria-tính cho đến ngày nay. Sự nhìn nhận này, không chỉ bởi sự sống động của các hình ảnh nhân vật được thể hiện, sự cân bằng hoàn hảo một cách tự nhiên của cấu trúc hình diện, mà cơ bản hơn hết, bởi tầm vóc tư tưởng lớn lao và bởi các giá trị biểu xúc tiềm ẩn vô hạn lấp lánh trong từng chi tiết-bao trùm tác phẩm... Ai dường như cũng biết Raphael là họa sĩ mộ đạo nhất trong số họa sĩ danh tiếng thời Phục hưng. Nhiều người cho rằng, "Đức Mẹ Sistine" là biểu hiện kết tinh đức tin và tri thức của Raphael về Đức Mẹ Maria và về Tin Mừng Cứu Chuộc của Thiên Chúa...


“Đức Mẹ Sistine”-1514-sơn dầu trên vải-265 x 196 cm.


Trung tâm tác phẩm là hình ảnh Đức Mẹ Đồng Trinh đang bồng Chúa Hài Đồng trên tay với dáng dấp vừa trang nghiêm đường bệ vừa lồng lộng thanh nhã. Đã có rất nhiều bài viết của các nhà phê bình nghệ thuật phân tích các sắc thái biểu ý, biểu cảm của hình ảnh này và không ngớt lời ca ngợi bút pháp điêu luyện cũng như sự am hiểu tâm lý của tác giả. Tuy nhiên, để thực sự hiểu ý nghĩa sâu xa của tác phẩm, cần phải bắt đầu từ hình ảnh hai vị Thánh quỳ hai bên Đức Mẹ và Chúa Hài Đồng. Chỉ khi biết hai vị Thánh này là ai, chúng ta mới có cơ may cảm nhận được ý nghĩa ẩn đàng sau dáng dấp của họ; ý nghĩa sự liên hệ tương tác của các yếu tố trên tranh; và cả ý nghĩa thực sự của hình ảnh Đức Mẹ và Chúa Hài Đồng...   

Quỳ hai bên Đức Mẹ và Chúa Hài Đồng là Thánh Sixto và Thánh Barbara- hai vị Thánh Tử Vì Đạo ở thế kỷ thứ III, thời Giáo hội Rôma bị bách hại. Chúng ta có thể nhận thấy sự thanh thản biểu lộ nơi hình ảnh hai vị Thánh. Cái không gian trời mây với ánh sáng huyền diệu lung linh ẩn hiện những khuôn mặt Thiên Thần làm nền trong tranh cho thấy họ đang ở một cảnh giới khác. Họ đến, trong sự tuyên xưng đức tin, và qua dáng dấp, dường như họ đang làm chứng về cuộc sống vĩnh cửu bên Thiên Chúa sau cái chết trần thế. Hai thiên thần trong hình ảnh hai em bé ngây thơ, hồn nhiên ở bên dưới, dường như cũng đang làm chứng cho sự tuyên xưng và làm chứng này của họ...

Tất cả hình ảnh trong tranh được dàn dựng như một hoạt cảnh trên sân khấu. Điều này chứng tỏ đây là hình ảnh của sự suy gẫm. Và, đòi hỏi một sự suy gẫm. Cách bố cục các cụm nhân vật cùng hai tấm rèm cong hai bên ở phía trên làm liên tưởng đến hình ảnh Thập Tự Giá. Chính cấu trúc tổng thể tạo liên tưởng đến Thập Tự Giá đã mở rộng trường nghĩa tác phẩm: Sự suy ngẫm thần học Thập Tự Giá ở đây sẽ có ý nghĩa soi sáng cho các suy ngẫm thần học Đức Mẹ Maria...

Sự trác tuyệt và tầm quan trọng của "Đức Mẹ Sistine" của Raphael nằm ở sự gợi mở cho những suy ngẫm sâu xa này.

Xin nói thêm một chút bên lề: "Đức Mẹ Sistine" của Raphael, từ năm 1754 đã được chuyển đến Dresden-Đức. Và, từ đó đến nay, nó được xem là biểu tượng của thành phố này.

*

Ngày nay, trong cách nhìn đương đại về nghệ thuật, người ta có thể không còn yêu thích các tác phẩm của Raphael nữa. Tuy nhiên, điều đó không có ý nghĩa của một sự phủ định. Và dường như chỉ là nhất thời. Raphael vẫn là một họa sĩ vĩ đại trong lịch sử. Và tác phẩm của ông không chỉ tồn tại vĩnh cửu mà còn không ngừng được tái sinh trong những tâm tình khác nhau của đức tin Công giáo và sự ngưỡng vọng về những cái đẹp cao cả.



Nguyên Hưng
(Bài viết riêng cho webste của TGP SG)







Nghệ thuật có thể làm được gì cho Giáo hội?

Qua lịch sử, có thể nhận thấy, nghệ thuật có thể làm được nhiều điều:


1/ Tạo ra một hệ thống tín hiệu thị giác (tranh, tượng, các ấn phẩm, biểu trưng và không gian kiến trúc...) không chỉ có tác dụng mang hình ảnh Thiên Chúa đến gần hơn với mọi người-kích thích những suy tưởng, suy ngẫm hướng về Thiên Chúa-nuôi dưỡng đức tin, mà rộng hơn, còn góp phần tạo nên một môi trường văn hóa Công giáo-nuôi dưỡng một mối đồng cảm chung, tạo nên ý thức tự giác về một tương lai chung, một trách nhiệm chung nơi cộng đồng giáo dân. Đây cũng là một trong những yếu tố hết sức cơ bản để duy trì sự tồn tại và phát triển của bản thân Giáo hội...

Chúng ta đã biết, từ khởi thủy, Giáo hội đã quan tâm đến khía cạnh này của nghệ thuật, kể cả trong giai đoạn mà khuynh hướng bài trừ ảnh tượng có sức mạnh áp đảo…

Trong tầm nhìn đương đại, như chúng ta cũng đã biết, văn hoá, trước hết và cơ bản hơn hết, là một hệ thống ký hiệu, một môi trường ký hiệu. Chính sự phong phú, đa dạng và sự năng sản của hệ thống ký hiệu này thể hiện sức sống, sự năng động và duy trì sự sống, khả năng phát triển của một nền văn hoá… Nghệ thuật là một trong những thành phần cơ bản giúp định hình và phát triển hệ thống ký hiệu văn hoá đó…  

"Đức mẹ Đồng trinh và Chúa Hài đồng"-sơn mài-Nguyễn Phước-1990



2/ Sự định hình một thiết chế văn hóa nghệ thuật Công giáo, bao gồm các hoạt động sáng tác và triển lãm, phê bình, diễn dịch, truyền thông và giao lưu, hoạt động khảo cứu và bảo tồn, bảo tàng v.v… luôn luôn có tác dụng mở rộng không gian và đa dạng hóa các hoạt động giao tiếp giúp thắt chặt và phát triển quan hệ cộng đồng Công giáo…

Có lẽ, tất cả chúng ta ở đây đều đã biết, một bảo tàng nghệ thuật Công Giáo, các cuộc triển lãm tranh tượng và giao lưu giữa nghệ sĩ với công chúng, các lớp dạy vẽ và các cuộc thi sáng tác nghệ thuật cho mọi thành phần, mọi lứa tuổi v.v… có tác dụng nuôi dưỡng đức tin và phát triển tín đồ, nhiều khi, còn hơn cả các hoạt động rao giảng nơi nhà thờ…

Thực tế cho thấy, nghệ thuật ở khía cạnh sinh hoạt, luôn có tác dụng lôi kéo giới trẻ, giới trí thức và tầng lớp trung lưu-những thành phần rất sao nhãng với các hoạt động tôn giáo nơi nhà thờ. Sự định hình các thiết chế văn hóa nghệ thuật Công giáo với các hoạt động cụ thể, bởi vậy, sẽ có tác dụng nuôi dưỡng đức tin và gìn giữ quan hệ tôn giáo nơi các thành phần này…

Tóm lại, có thể nói, chỉ riêng ở khía cạnh sinh hoạt, nghệ thuật có thể tham gia vào quá trình định hình một nền tảng Văn hoá Công Giáo là yếu tố quyết định cho sự tồn tại và phát triển của bản thân đạo Công Giáo. Đặc biệt là trong bối cảnh thời đại ngày nay, khi mà các khuynh hướng duy lý và lối sống thực dụng đang có những ảnh hưởng nặng nề…

"Đêm Thánh"-sơn mài-Nguyễn Gia Trí-1941. Tác phẩm này, đang treo ở gian Thánh nhà thờ Mai Khôi-Tú Xương-Q3, TP HCM


3/ Nghệ thuật trong ý nghĩa là sự trình hiện trực tiếp các suy nghiệm, chứng nghiệm của người nghệ sĩ trong đức tin tôn giáo, và bằng “cái đẹp”, tác động trực tiếp đến tình cảm người xem…, luôn luôn có khả năng vượt qua các rào cản của “chủ nghĩa duy lý”, các khuynh hướng “duy khoa học” và “dị biệt văn hóa”, kể cả sức ì bởi các khuynh hướng bảo thủ có thể có nơi bản thân Giáo hội.

Chính thuộc tính với khả năng này, đã biến lịch sử nghệ thuật Công giáo trở thành lịch sử của một cuộc hòa giải vô tận giữa con người với chính mình trước đức tin tôn giáo, và, đã dẫn đến sự “biến hình” vô tận của Thiên Chúa trong nghệ thuật-mang “Tin mừng” đến những miền tâm thức và văn hóa khác nhau.

Có thể nói, chính các hoạt động bảo trợ cho nghệ thuật, cách nhìn cởi mở của Giáo hội đối với nghệ thuật, và các thành quả rực rỡ của nó ở thời Phục Hưng, là một trong các yếu tố có ý nghĩa hết sức quyết định giúp Giáo Hội chống chọi  được với các phong trào ly khai đương thời và cả với các khuynh hướng duy lý sau này. Mỗi tác phẩm nghệ thuật đã tồn tại như những mối dây kết nối vừa mang tính thế tục vừa thiêng liêng giữ gìn quan hệ của mỗi người với “Thiên Chúa”, với các tín điều tôn giáo…

Sự phát triển của các nền nghệ thuật Công giáo mang tính địa phương ở khắp nơi trên thế giới từ thế kỷ XIX cho đến nay, cũng vậy, thực sự đã có ý nghĩa chứng minh cho sức mạnh “Ngôn sứ” này của nghệ thuật. Về mặt tâm lý, chúng ta có thể nói, chính nhờ “cái đẹp” mà người ta dễ tin hơn vào “cái chân”, “cái thiện”, và do đó, mà dễ gần “Thiên Chúa” hơn…!

Giáng sinh-sơn dầu-Nguyễn Anh-1961



4/ Cuối cùng, qua sự phát triển với những thành tựu rực rỡ của nghệ thuật Công giáo, chúng ta có thể nhận thấy, nghệ thuật không chỉ mang lại những giá trị mới mẻ trong đời sống tôn giáo, mà còn thông phần “Phục sinh” Thiên Chúa trong những giá trị mới mẻ của thời đại. Trong nghệ thuật và qua nghệ thuật, chúng ta có thể nói: Thiên Chúa không chỉ là nguồn an ủi mà còn mang lại sự phong phú cho đời sống tinh thần con người; Thiên Chúa không chỉ là nguồn hy vọng mà còn là thực tại trong tính toàn vẹn của nó…

Nói cách khác, chính nghệ thuật, bằng “cái đẹp” với “chân tính và thiện tính” của nó, đã đưa mọi người đến với Thiên Chúa bằng niềm vui và sự hòa điệu…

Khả năng là vậy, nhưng như chúng ta đều biết, từ khả năng đến hiện thực là cả một chặng đường dài tùy thuộc rất nhiều vào điều kiện thực tế và sự cố gắng của con người…

Tiếp  theo, tôi xin trình bày nhận định của mình về tình trạng của nghệ thuật Công giáo ở Việt Nam hiện nay, và các hệ quả, hệ lụy của nó.

Và, ở phần cuối cùng, tôi xin trình bày, nếu đặt mình ở vị trí của Giáo hội, tôi sẽ làm gì để tận dụng hết các khả năng của nghệ thuật vượt qua những khó khăn trước mắt...


(Trích tham luận đọc tại Hội nghị về Nghệ thuật Thánh-Công giáo)



Nguyên Hưng